Kinh tế Nhà_Hạ

Nông nghiệp

Vào thời Hạ, văn minh nông nghiệp có sự phát triển khá lớn. "Luận ngữ-Thái bá" ghi rằng "Vũ tận lực vào ngòi lạch", biến thủy tai thành thủy lợi, phục vụ trồng cấy. Kỳ thực việc ứng dụng kỹ thuật thủy lợi là do nhân dân lưu vực Hoàng Hà trong quá trình lao động thực tiễn dần tích lũy được, không phải chỉ do Đại Vũ tiến hành[tham 37] Theo truyền thuyết, đại thần của Vũ là Nghi Địch bắt đầu cất rượu, Hạ hậu Thiếu Khang cũng phát minh ra phương pháp cất rượu nếp. Vào hậu kỳ thời đại đồ đá mới, văn hóa Long Sơn thuộc văn hóa Trung Nguyên đã có tập quán cất rượu, đến thời Hạ khi mà sức sản xuất cao hơn thì cất rượu ngon, uống rượu ngon trở thành một cách để tượng trưng cho quyền lực và tài lực.[tham 145] Trong văn hiến cổ có ghi chép đến các truyền thuyết "Đỗ Khang làm rượu"[tham 146], "Nghi Địch làm rượu"[tham 147], "Thái Khang làm rượu nếp", "Thiếu Khang làm rượu nếp"[tham 148], chúng là những bằng chứng về tầm quan trọng của rượu trong thời kỳ này. Thời kỳ Hạ-Thương-Tây Chu, rượu đều cất từ lương thực và có số độ không cao, cũng không nồng mạnh. Trong "Lễ ký-Ngọc tảo" có chép rằng cổ nhân uống ba chén (túc) rượu xong thì đầu óc vẫn tỉnh táo.[chú thích 175] Để đáp ứng yêu cầu sản xuất nông nghiệp, người ta khám phá ra quy luật các mùa của nông sự, loại nông lịch vẫn được lưu hành đến nay từng được gọi là Hạ lịch- có khả năng được biên thành vào thời Hạ. Súc mục nghiệp có sự phát triển nhất định, còn có một số thị tộc bộ lạc chuyên môn chăn nuôi, như Hữu Hỗ thị sau khi thua Hạ hậu trong trận chiến tại Cam bị biếm làm mục nô làm việc chăn nuôi. Thức ăn chủ yếu của thứ dân Tam đại là cháo, cơm nấu từ các loại hạt. Đem các loại kê, gạo nấu thành cháo loãng, cháo đặc dùng để ăn, xã hội thượng tầng thì ăn nhiều cơm, có khi còn ăn rau xanh. Chỉ khi cử hành hoạt động tế tự quy mô lớn thì mới giết thịt gia súc để tế, thịt cúng đặt ở trong chiếc đỉnh trữ dưới lòng đất.[tham 150][tham 151][tham 152] Tại nhiều điểm di chỉ văn hóa Nhị Lý Đầu phát hiện được các mẫu vật vỏ kê, vỏ thóc.[tham 39]

Thủ công nghiệp

"Khảo công ký" có viết rằng "Hạ hậu thị thượng tượng", thể hiện rằng Hạ hậu xem trọng sản xuất thủ công nghiệp. Triều Hạ thành công trong việc đưa văn minh Trung Nguyên từ thời đại đồ đá quá độ sang thời đại đồ đồng. Các đồ vật thời đại đồ đá mới như đồ đá tinh xảo, đồ xương sừng, đồ vỏ trai dần bị đồ gốm, đồ sơn mài, đồ ngọc thạch, đồ ngọc lam, đồ đồng, đồ đồng thanh thay thế. Tương truyền, vào thời kỳ Nghiêu Thuấn đã sử dụng đồ sơn, sang thời kỳ Hạ Vũ được sử dụng làm đồ tế, "mặc nhiễm kỳ ngoại, nhi chu họa kỳ nội".[tham 153] Thời kỳ viễn cổ, nhân dân sử dụng rộng rãi đồ gỗ và sơn, song đồ làm bằng gỗ dễ dàng bị mục, không dễ bảo tồn, hiện nay khai quật được khá ít. Tại di chỉ Nhị Lý Đầu khai quật được một cái bàn nhỏ được sơn, lớp gỗ đều đã mục nát, song vẫn có thể phân tích ra hình dạng. Từ việc nghiên cứu hình dạng, phát hiện ra có nhiều loại như ống sơn, trống sơn, bát sơn, hộp sơn đáy bằng, hay quan tài sơn. Chế tạo đồ ngọc thạch thời Hạ đã có trình độ tương đối, "Tả truyện" viết rằng vào thời Chu sơ phân phong Lỗ quốc công Bá Cầm, ban cho bảo ngọc truyền thế, "Hạ hậu thị chi hoàng[chú thích 176]"[tham 154] Tại di chỉ Nhị Lý Đầu khai quật được nhiều loại đồ ngọc như qua ngọc, đao ngọc, khuê ngọc, tông ngọc, bản ngọc, việt ngọc. Các loại đồ ngọc này dùng làm vật phẩm trang trí trong lễ nghi, không phải là công cụ dùng trong thực tiễn. Trong số văn vật khai quật thuộc kỳ thứ ba của văn hóa Nhị Lý Đầu có binh khí làm bằng đồng thanh sớm nhất của Trung Quốc, ứng với ghi chép "Vũ huyệt chi thời, dĩ đồng vi binh".[tham 155] Có nhiều chủng loại đồ đồng như qua, đao, đục, chùy, móc câu. Ngoài ra, còn phát hiện vết tích của việc chế tạo đồ đồng như than gỗ, vụn đồng đỏ, mảnh khuôn đúc, mảnh nồi nấu.[tham 59]

Vào thời kỳ đồ đá mới, nghề xe sợi dệt vải có tiến bộ, xuất hiện khung cửi nguyên thủy, nguyên liệu xe sợi dệt vải trong xã hội hạ tầng phần nhiều là từ sắn dây, đay, còn trong xã hội thường tầng thì dùng nhiều lông[chú thích 177], da, đương thời đã có tập quán nhuộm y phục.[tham 157][tham 156] Mặc dù đến nay vẫn chưa phát hiện ra chứng cứ khảo cổ chứng tỏ văn hóa Nhị Lý Đầu sử dụng lụa, song đã có phát hiện khảo cổ liên quan trong văn hóa Long Sơn, văn hóa Đại Vấn Khẩu, văn hóa Lương Chử có niên đại sớm hơn[tham 158], kết hợp với ghi chép trong "Hạ tiểu chính" là "tam nguyệt,... nhiếp tang. Tang nhiếp nhi ký chi, cấp tang dã....thiếp, tử thủy tàm[tham 159], thì việc người Hạ từng sử dụng sản phẩm tơ lụa cũng có tình có lý.[tham 160]

Thương nghiệp

"Diêm thiết luận" có viết rằng "Hạ hậu dùng sò đen"[tham 161], cho thấy người thời Hán nhận định triều Hạ dùng tiền vỏ sò. Nhiều nền văn hóa viễn cổ trên thế giới dùng vỏ sò vỏ trai trong thiên nhiên làm tiền tệ, tiền đề của việc này là phải đủ về số lượng, đồng thời có thể cung ứng vỏ sò biển trong một thời gian dài. Tuy nhiên, Hạ hậu thị là văn minh sông nước, phạm vi thế lực chỉ giới hạn trong trung hạ du Hoàng Hà, đến trung vãn kỳ mới khoách trương đến bờ Hoàng Hải, trước đó Hạ hậu thị từng đối địch một thời gian dài với tộc Di ở phía đông, không có nhiều khả năng dự trữ được nhiều vỏ sò vỏ trai. Thương nghiệp giao dịch vào thời Hạ có khả năng thông qua hạt lương thực và gia súc còn sống để hoàn thành. Tại di chỉ Nhị Lý Đầu phát hiện vỏ sò thiên nhiên và nhân tạo, chúng có khả năng đảm đương nhiệm vụ tiền tệ.[tham 59]